Xem thêm

Chùa Dâu - Ngôi Chùa Cổ Hình Thành Sớm Nhất Việt Nam

Chùa Dâu Bắc Ninh - ngôi chùa cổ được hình thành sớm nhất tại Việt Nam - là một công trình di tích lịch sử tín ngưỡng đồng thời đánh dấu sự khởi nguồn của...

Chùa Dâu Bắc Ninh - ngôi chùa cổ được hình thành sớm nhất tại Việt Nam - là một công trình di tích lịch sử tín ngưỡng đồng thời đánh dấu sự khởi nguồn của đạo Phật ở Việt Nam. Đối với du khách trong và ngoài nước, chùa Dâu không chỉ là điểm hành hương chiêm bái mà còn là địa điểm vãn cảnh và tìm hiểu về những giá trị lịch sử quý giá.

Giới thiệu về chùa Dâu

Ở vùng Dâu thuộc xứ Kinh Bắc, ngày xưa có năm ngôi chùa cổ, ngoài thờ Phật còn thờ Tứ Pháp gồm Chùa Dâu thờ Pháp Vân (thần mây), Chùa Đậu thờ Pháp Vũ (thần mưa), Chùa Tướng thờ Pháp Lôi (thần sấm), Chùa Dàn thờ Pháp Điện (thần chớp) và Chùa Tổ thờ Man Nương là mẹ của Tứ Pháp. Trên đỉnh Tứ Pháp, Pháp Vân là người đứng đầu. Chùa Dâu trở thành trung tâm tín ngưỡng này của vùng Dâu cũng như cả nước. Vị tổ sư của thiền phái ở Việt Nam là nhà sư Tì-Ni-Đa-Lưu-Chi (580-?) đã trụ trì ở đây và chùa Dâu trở thành ngôi chùa Thiền tông đầu tiên ở Việt Nam.

Theo tài liệu và cổ vật được lưu giữ tại chùa, cùng với nghiên cứu về Phật giáo, bản khắc “Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh” có niên đại 1752 đã khẳng định “Chùa Dâu ở Bắc Ninh là tổ đình của Phật giáo Việt Nam”. Ngày nay, chùa Dâu nằm tại xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Chùa đã được xếp hạng Di tích lịch sử từ năm 1962 và tiếp tục được xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt từ năm 2013.

Truyền thuyết kỳ bí về ngôi chùa

Sau khi ra đời tại Ấn Độ vào khoảng thế kỷ VI TCN, Phật giáo được các nhà sư và thương gia truyền bá vào nước ta. Đạo Phật vốn hòa nhập với văn hóa và phong tục của người Việt và được nhân dân đón nhận nhanh chóng. Chùa Dâu được xây dựng trong những buổi đầu của Công Nguyên, được cho là vào khoảng thế kỷ II hoặc muộn nhất là thế kỷ III, trong thời gian Sĩ Nhiếp cai trị vùng quận Giao Châu, thủ phủ Kinh Bắc.

Truyền thuyết về chùa Dâu được lưu truyền dân gian kể rằng: Xưa kia, gia đình ông bà Tu Định ở Làng Mèn (Mã Xá) thể hiện lòng nhân đức cao cả và mến mộ Phật giáo. Họ đã gửi con gái duy nhất tên Man Nương đến chùa Linh Quang (Tiên Du, Bắc Ninh) tu đạo và giúp đỡ nhà chùa quét dọn, lấy củi, nấu nướng... Tại chùa, có thiền sư Khâu Đà La, một vị cao tăng tinh thông pháp thuật được ai cũng kính nể và tôn thờ.

Một ngày sau khi hoàn thành công việc trong chùa, Man Nương mệt mỏi đã ngủ thiếp bên bậu cửa. Khi nhà sư Khâu-Đà-La kết thúc tụng kinh và quay trở về phòng nghỉ, thầy không muốn đánh thức nàng nên đã bước qua mà không hay biết "Nhân thiên hợp khí" nàng đã hoài thai và sinh con vào ngày mồng tám tháng tư âm lịch. Bé gái mới sinh ra có mùi hương thơm ngào ngạt, mây ngũ sắc và ánh hào quang chiếu sáng khắp nơi. Nhà sư nhận lấy đứa bé, bế đến trước một gốc cây dung thụ trong chùa, gõ gậy vào thân cây và niệm chú. Bất ngờ, cây dung thụ liền tách ra làm đôi, nhà sư đặt đứa bé vào trong, rồi cây lại tự nhiên khép lại như cũ.

Trong một đêm mưa to và gió lớn, cây dung thụ đổ xuống và trôi theo sông Dâu. Trong đêm đó, thái thú Sĩ Nhiếp đã mơ thấy thần nhân đến báo mộng xin được tạc tượng. Sĩ Nhiếp đã sai quân lính vớt cây dung thụ lên, nhưng không ai kéo nổi. Chỉ khi bà Man Nương đưa dải yếm ra thì mới có thể kéo được cây lại bờ. Thái thú nhờ một thợ tài tìm đến để tạc bốn pho tượng. Tạc xong, bốn ngôi tượng đã thấy mây, mưa, sấm, chớp nổi lên. Vì vậy, bốn tượng được đặt tại bốn ngôi chùa khác nhau trong khu vực là Chùa Dâu, Chùa Đậu, Chùa Dàn và Chùa Tướng.

Ngoài ra, còn có truyền thuyết về sự tích chùa Dâu như sau: Mạc Đinh Chi, người hết lòng yêu thương mẹ nhưng mẹ ông bị bắt giam. Khi nhà vua yêu cầu xây một ngôi chùa tháp chín tầng, cầu chín nhịp, chùa trăm gian, ông đã làm ngay bằng vàng mã. Cuối cùng, khi mẹ ông được thả, ông đã xây dựng chùa như ngày nay. Có tin rằng Mạc Đĩnh Chi theo lệnh Vua Trần Anh Tông tu sửa và kiến thiết lại chùa thành chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp.

Giới thiệu về kiến trúc chùa Dâu

Chùa Dâu ở Bắc Ninh có vai trò quan trọng trong đời sống của người dân và luôn được các triều đại phong kiến trùng tu và xây dựng.

Kiến trúc của chùa vẫn giữ nguyên kết cấu “nội công ngoại quốc”. Bao gồm các hạng mục như: Cổng tam quan, tiền thất, tiền đường, thiêu hương, thượng điện, hậu đường, và tháp Hòa Phong với diện tích hơn 177m2. Ba ngôi nhà chính là Tiền đường, Thiêu hương và Thượng điện được bao quanh bởi bốn dãy nhà hình chữ nhật. Các công trình phụ trợ bao gồm nhà Mẫu, nhà Tổ, nhà khách, vườn tháp, ao chùa, và tường bao 4 hướng hình chữ Quốc.

Tiền thất của chùa có 7 gian và 2 chái, là nơi bày một số bàn ghế để khách sắp lễ trước khi vào lễ Phật.

Qua cổng tam quan, ta thấy được Tiền đường, thiêu hương và thượng điện được xây dựng theo từng nấc cao dần.

Tiền đường là nơi rộng nhất và có 7 gian và 2 chái. Những hoa văn hình mây lá, tứ linh, tứ quý và triện dây được trổ chạm nổi trên các gian của Tiền đường. Ở giữa có 2 thành đá chạm hình rồng theo phong cách nghệ thuật thời Trần. Nơi này thờ Hộ Pháp, Đức Ông, Đức Thánh Hiền, Bát Bộ Kim Cương.

Thiêu hương gồm 3 gian nối Tiền đường và Thượng Điền. Nơi này thờ Tam Bảo, hai bên xung quanh có tượng Thập điện Diêm Vương. Tượng Thái tử Kỳ Đà và Mạc Đĩnh Chi nằm đối diện nhau phía cuối tường.

Cao nhất là Thượng điện với 1 gian và 2 chái được tạo khối như bông sen. Trong chính giữa, thờ tượng Bà Dâu (Pháp Vân) cao 185cm.

Bên trái là tượng Bà Đậu (Pháp Vũ) cao 128cm, được đem từ chùa Đậu để thờ tại chùa Dâu sau khi chùa Đậu bị phá huỷ trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Ngoài ra, còn có tượng Kim Đồng, Ngọc Nữ, Chúa Đen, Chia Trắng, Thạch Quang Phật và tượng vị tổ sư Tì-Ni-Đa-Lưu-Chi được bố trí cân xứng và hài hòa.

Gian thờ của nhà Hậu phía sau được bố trí các pho tượng Bồ Tát, Tam thế, Đức Ông và Thánh Tăng theo kết cấu tiền phật hậu thần. Ở đây lưu giữ 2 bộ ván khắc kể về sự tích Man Nương cùng quá trình xây dựng chùa. Kết nối với khu nhà Hậu là hai dãy hành lang chạy dài, bố trí 18 pho tượng Thập Bát La Hán.

Tháp Hòa Phong, một tháp uy nghi, nằm tại sân trước nhà Tiền đường. Theo thời gian, tháp chỉ còn lại 3 tầng cao khoảng 17m. Bên trong tháp rỗng, dưới tầng thấp nhất có đặt bốn bức tượng Tứ Trần. Phía trên có treo quả chuông đúc vào năm đầu vua Cảnh Thịnh (1793) thuộc triều đại nhà Tây Sơn.

Lễ hội chùa Dâu tổ chức khi nào?

"Dù ai đi đâu về đâu, Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về. Dù ai buôn bán trăm nghề, Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu."

Hàng năm, lễ hội chùa Dâu được tổ chức trong 3 ngày 7, 8, 9 tháng 4 âm lịch. Trong đó, ngày lễ chính là ngày 8/4 thu hút hàng chục nghìn người từ khắp nơi đến trẩy hội, cúng lễ, dâng hương và chiêm bái.

Tại lễ hội chùa Dâu, du khách và người dân địa phương có cơ hội tham gia các nghi thức cổ truyền như cướp nước, múa trống, múa gậy và nhiều trò diễn xướng dân gian như chầu văn, hát chèo, hát trống quân... Lễ hội còn nổi bật với hoạt động rước tượng Tứ Pháp từ 3 chùa khác nhau về chùa Dâu, tượng trưng cho việc hội tụ các yếu tố Mây + Sấm + Chớp = Mưa. Tiếp theo, 4 kiệu sẽ đến chùa Tổ thăm mẹ Man Nương.

Đây được coi là lễ hội Phật giáo lớn của vùng Bắc Bộ, mang ý nghĩa cầu cho mưa thuận gió hòa, sản xuất nông nghiệp mùa màng được bội thu.

Chú ý khi hành hương và vãn cảnh tại chùa

Chuẩn bị đồ lễ

Khi tham gia hành hương và vãn cảnh tại chùa Dâu, người hành hương cần chuẩn bị đồ lễ trước. Bất kể trong những ngày đầu xuân, ngày lễ Phật giáo trong năm, hay ngày hội chùa Dâu, những lễ vật này luôn được đem tới như một sự thành tâm bái yết trước Phật. Điều quan trọng là lòng thành, không phải là lễ vật. Những vị Phật chứng nhận tâm chứ không phải lễ vật. Do đó, con chú trên đường đi hành hương không cần sắm sửa lễ vật, mâm cao cỗ đầy đủ mà chỉ cần đơn giản nhưng thành tâm là đủ. Khi đến chùa Dâu, ta chỉ cần dâng đặt đồ chay, tịnh như hương hoa, quả tươi chín, trầu cau, xôi chè hay phẩm oản. Tuyệt đối không cúng rượu và thịt.

Trong số các vật lễ dâng lên hương án tại chùa, một lựa chọn phổ biến là Oản Tài Lộc là Ngọc Thực. Oản Tài Lộc là vật lễ thiết kế độc đáo, ý nghĩa và có thể được trưng lễ trong thời gian dài mà không bị hỏng hoặc mốc.

Với hiểu biết sâu sắc về tín ngưỡng tâm linh, các nghệ nhân tại Oản Cô Tâm đã nghiên cứu và cải tiến thiết kế để tạo ra những tác phẩm Oản Tài Lộc lễ Phật với nhiều kích cỡ lựa chọn và mức giá phải chăng.

Lộ trình di chuyển tới chùa Dâu

Chùa Dâu cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 20km. Lộ trình di chuyển tối ưu từ trung tâm Hà Nội là: Cầu Chương Dương - Đường Nguyễn Văn Cừ - Cầu Chui - Đường QL 5 - tỉnh lộ 181 - Dương Xá (Gia Lâm) - Phú Thị (Gia Lâm) - Thuận Thành - Phố Dâu - Chùa Dâu.

1